Competency-based model
Mô hình năng lực trong
phát triển nguồn nhân lực
Boyatzis et al. và Whetten & Cameron (1995) cho rằng phát triển các chương trình giáo dục và đào tạo dựa trên mô hình năng lực cần xử lý một cách có hệ thống ba khía cạnh sau: (1) xác định các năng lực, (2) phát triển chúng, và (3) đánh giá chúng một cách khách quan.
Để xác định được các năng lực, điểm bắt đầu
thường là những kết quả đầu ra (outputs). Từ những kết quả đầu ra này, đi đến
xác định những vai trò của người có trách nhiệm phải tạo ra các kết quả đầu ra
này. Một vai trò là một tập hợp các hành vi được mong đợi về một người theo
những nghĩa vụ và địa vị công việc của người đó. Thuật ngữ “vai trò công việc”
đề cập tới việc thực hiện những nhiệm vụ thực sự của một người. Trên cơ sở của
từng vai trò xác định những năng lực cần thiết để có thể thực hiện tốt vai trò
đó. Năng lực được định nghĩa theo rất nhiều cách khác nhau, tuỳ thuộc vào bối
cảnh và mục đích sử dụng những năng lực đó. Các năng lực còn là những đòi hỏi
của các công việc, các nhiệm vụ, và các vai trò. Vì vậy, các năng lực được xem
như là những phẩm chất tiềm tàng của một cá nhân và những đòi hỏi của công
việc. Từ hiểu biết về năng lực như vậy, ta có thể thấy các nhà nghiên cứu trên
thế giới đã sử dụng những mô hình năng lực khác nhau trong tiếp cận của mình:
(1) những mô hình dựa trên cơ sở tính cách và hành vi cá nhân của cá nhân theo
đuổi cách xác định “con người cần phải như thế nào để thực hiện được các vai
trò của mình”; (2) những mô hình dựa trên cơ sở các kiến thức hiểu biết và các
kỹ năng được đòi hỏi theo đuổi việc xác định “con người cần phải có những kiến
thức và kỹ năng gì” để thực hiện tốt vai trò của mình; (3) những mô hình dựa
trên cơ sở các kết quả và tiêu chuẩn đầu ra theo đuổi việc xác định con người
“cần phải đạt được những gì ở nơi làm việc”. Mô hình tiếp cận với sản phẩm đầu
ra được các nhà nghiên cứu và thực hành trên thế giới ủng hộ rất nhiều. Vì vậy,
năng lực được hiểu là một tập hợp các kiến thức, thái độ, và kỹ năng hoặc cách
chiến lựơc tư duy mà tập hợp này là cốt lõi và quan trọng cho việc tạo ra những
sản phẩm đầu ra quan trọng (McLagan, 1989).
Khi bàn về mô hình dựa trên năng lực cần chú ý
là năng lực còn là những đòi hỏi của công việc, nhiệm vụ, và các vai trò. Vì
thế, năng lực được xem như những phẩm chất tiềm tàng của một cá nhân và những
đòi hỏi của công việc. Điều này có nghĩa là các năng lực luôn bị chí phối bởi
bối cảnh cụ thể - môi trường, bối cảnh cụ thể của đất nước, tổ chức, và vị trí
cụ thể trong tổ chức đó – trong đó các năng lực được đòi hỏi (Valkeavaara,
1998, Dooley et al., 2001). Vì thế, trong điều kiện của toàn cầu hóa và sự thay
đổi nhanh chóng của môi trường và khoa học công nghệ - học tập không ngừng và
liên tục phát triển là một trong những điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và
phát triển của bất kỳ một tổ chức nào - mô hình năng lực được sử dụng rất phổ biến
ở cấp vi mô (trong từng đơn vị cụ thể) và ngày càng phát triển mạnh mẽ trên
toàn thế giới trong quá trình tăng cường và phát triển các tổ chức. Mô hình này
bao gồm các bước như sau:
° Bước 1: Xác định tầm nhìn, sứ
mạng, và mục tiêu của tổ chức,
° Bước 2: Xác định các quá
trình, hệ thống, thủ tục nội bộ nhằm đạt đến các tầm nhìn, sứ mạng và mục tiêu
chiến lược đã được xác định,
° Bước 3: Xác định các năng lực
cần thiết để đạt tới các sứ mạng, mục tiêu đã xác định,
° Bước 4: Xác định những thiếu
hụt, khoảng trống năng lực và hình thành các kế hoạch phát triển của cá nhân và
của tổ chức, và
° Bước 5: Hợp nhất các kế hoạch
này thành kế hoạch phát triển nguồn nhân lực của tổ chức.
Trong điều kiện của các mô hình năng lực được sử
dụng rộng rãi trong các đơn vị cơ sở, các nhà hoạch định chính sách cũng theo
đuổi những tiếp cận rõ ràng hơn, hiệu quả hơn, có trách nhiệm hơn và dễ đánh
giá hơn các tiếp cận truyền thống trong giáo dục, đào tạo, và phát triển nguồn
nhân lực. Mô hình năng lực đã được phát triển rộng khắp trên thế giới với Hệ
thống chất lượng quốc gia về đào tạo nghề nghiệp (National Vocational
Qualifications (NVQs)) ở Anh và xứ Wales, Khung chất lượng quốc gia của New
Zealand (New Zealand's National Qualifications Framework), các tiêu chuẩn năng
lực được tán thành, khẳng định bởi Hội đồng đào tạo quốc gia Australia về đào
tạo (National Training Board (NTB)), và Hội đồng thư ký về những kỹ năng cần
thiết phải đạt được (the Secretary's Commission on Achieving Necessary Skills
(SCANS)) và những tiêu chuẩn kỹ năng quốc gia (the National Skills Standards) ở
Mỹ.
Trên cơ sở tiêu chuẩn hóa việc giáo dục, đào
tạo, và phát triển, và nâng cao hiệu quả hoạt động của người lao động, Bộ lao
động Mỹ đã tài trợ cho Hiệp hội những người làm công tác đào tạo và phát triển
Mỹ (American Society for Training and Development – ASTD) thực hiện một nghiên
cứu về những kỹ năng mà các tổ chức đòi hỏi (Carnevale, Gainer, and Meltzer,
1990). Đồng thời Hội đồng thư ký về những kỹ năng cần thiết phải đạt được
(SCANS, 1991) cũng thực hiện một nghiên cứu về vấn đề này. Trên cơ sở hai
nghiên cứu tầm cỡ này đã hình thành mô hình về những kỹ năng mà các tổ chức
mong muốn (Employability skills). Những kỹ năng mà các tổ chức mong muốn là các
nhóm kỹ năng cốt lõi có thể sử dụng ở những môi trường và điều kiện khác nhau
mà các kỹ năng này thể hiện những chức năng cốt lõi và những kiến thức, thái
độ, và kỹ năng “mềm” được đòi hỏi bởi nơi làm việc của thế kỷ 21. Những kỹ năng
này là cần thiết cho sự thành công nghề nghiệp tại tất cả các cấp độ làm việc
và cho sự thành công tại tất cả các cấp độ giáo dục khác nhau. Mô hình này thể
hiện 16 kỹ năng khác nhau (Overtoom, 2000) được phân thành 6 nhóm:
1. Những kỹ năng về năng lực cơ bản: đọc, viết,
tính toán;
2. Những kỹ năng truyền đạt: nói, nghe;
3. Những kỹ năng về năng lực thích ứng: giải quyết
vấn đề, tư duy sáng tạo;
4. Những kỹ năng phát triển: tự trọng, động viên và
xác định mục tiêu, hoạch định sự nghiệp;
5. Những kỹ năng về hiệu quả của nhóm: quan hệ qua
lại giữa các cá nhân, làm việc đồng đội, đàm phán;
6. Những kỹ năng tác động, ảnh hưởng: hiểu biết văn
hóa tổ chức, lãnh đạo tập thể.
Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất và được xem
là thành công nhất là mô hình của Hiệp hội những người làm công tác đào tạo và
phát triển Mỹ (ASTD). Trong những nỗ lực hình thành các chuẩn mực cho việc giáo
dục, đào tạo, và phát triển tính chuyên nghiệp, Hiệp hội những người làm công
tác đào tạo và phát triển Mỹ đã phát triển một mô hình – Mô hình của McLagan về
thực tiễn phát triển nguồn nhân lực (McLagan’s (1989) Models for Human Resource
Develoopment Practice) - và mô hình này được sử dụng trong các
trường đại học cũng như các chương trình đào tạo những người làm công tác phát
triển nguồn nhân lực tại Mỹ cũng như ở nhiều quốc gia trên thế giới (Dooley et
al, 2001, Dare and Leach, 1998; Leach, 1993; Powell and Hubschman, 1999;
Rothwell and Lindholm, 1999). Mô hình của McLagan về thực tiễn phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng một loạt các mục đích: (1) tóm tắt 11 vai trò của những nhà
chuyên nghiệp phát triển nguồn nhân lực: Nhà quản lý hành chính, người lượng
giá, nhà quản lý, người phát triển tài liệu học tập giảng dạy, cố vấn phát
triển sự nghiệp, người giảng dạy, người làm marketing, người phân tích nhu cầu,
chủ thể thay đổi tổ chức, người thiết kế chương trình, và nhà nghiên cứu; (2)
nhận dạng và xác định 35 năng lực chủ yếu của phát triển nguồn nhân lực: các
năng lực chủ yếu này được phân thành 4 nhóm: các năng lực kỹ thuật, kinh doanh,
quan hệ qua lại giữa các cá nhân, và trí tuệ, tư duy; (3) mô tả 74 sản phẩm đầu
ra của công việc phát triển nguồn nhân lực; (4) nhận dạng những đòi hỏi chất
lựơng cho mỗi sản phẩm đầu ra của công việc phát triển nguồn nhân lực; (5) định
vị phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực nhân lực nói chung thông qua Vòng
nhân lực (Human resource wheel); (6) xác định 13 áp lực của tương lai ảnh hưởng
tới phát triển nguồn nhân lực, và (7) nhận dạng những vấn đề đạo đức chủ yếu
ảnh hưởng tới công việc phát triển nguồn nhân lực (Lam, 1993). Trong mô hình
này thì các vai trò và các năng lực được chú ý nhiều nhất.
Một trong những nỗ lực to lớn trong sử dụng mô
hình năng lực là từ lĩnh vực giáo dục, đào tạo và phát triển quản lý. Ngay từ
đầu những năm 1980 Boyatzis đã công bố một công trình nghiên cứu rất công phu
về Mô hình năng lực của nhà quản lý. Boyatzis đã xếp các năng lực của nhà quản
lý thành năm nhóm:
Boyatzis còn phân biệt sự cần thiết của các năng lực này ở những
nhà quản lý kinh doanh và quản lý công, cũng như ở những cấp độ quản lý khác
nhau. Mô hình của Boyatzis có một ảnh hưởng rất rộng lớn trong những nghiên cứu
về năng lực quản lý cũng như thực tiễn về giáo dục, đào tạo, và phát triển quản
lý.
1. Quản lý mục tiêu và hành động: định hướng hiệu
suất, chủ động hành động (proactivity), sử dụng các khái niệm để chẩn đoán, và
quan tâm tới những ảnh hưởng;
2. Lãnh đạo: tự tin, sử dụng các trình bày bằng lời
nói, tư duy logic, khái quát hoá;
3. Quản lý nguồn nhân lực: sử dụng quyền lực xã
hội, quan tâm tích cực đến con người, quản lý các quá trình nhóm, tự đánh giá
đúng đắn;
4. Chỉ đạo hoạt động của cấp dưới: phát triển người
dưới quyền, sử dụng quyền lực đơn phương, không gò bó;
5. Quan tâm đến những người xung quanh: tự chủ,
khách quan trong nhận thức, năng lực thích ứng và chịu đựng, quan tâm và gần
gũi mọi ngừơi.
Bên cạnh Boyatzis, Whetten and Cameron (1993)
cũng đã nỗ lực theo đuổi việc xây dựng một mô hình về nhà quản lý thành công.
Hai ông đã phỏng vấn 402 nhà quản trị rất thành công ở cả lĩnh vực kinh doanh
và lĩnh vực công và tìm ra khoảng 60 kỹ năng của các nhà quản lý có hiệu quả.
Mười kỹ năng quan trọng nhất trong 60 kỹ năng này là:
1. Truyền đạt bằng lời nói,
2. Quản lý thời gian và sự căng thẳng (stress),
3. Quản lý việc ra quyết định cá nhân,
4. Nhận dạng, xác định, và giải quyết các vấn đề,
5. Động viên và ảnh hưởng tới những người khác,
6. Ủy quyền,
7. Hình thành tầm nhìn và xác định mục tiêu,
8. Tự nhận thức,
9. Phát triển đội làm việc, và
10.Quản lý xung đột.
Hầu như không có sự phân biệt rõ ràng những mô hình
nghiên cứu về năng lực cho các nhà quản lý công và quản lý kinh doanh vì tiếp
cận này được sử dụng trước tiên và có hiệu quả hơn trong lĩnh vực kinh doanh –
nơi có thể đo lường tương đối chính xác, cụ thể các kết quả. Trong những nỗ lực
đào tạo và phát triển những nhà quản lý và lãnh đạo trong khu vực công, có một
số nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này (Boyatzis, 1982; Morley & Vilkinas,
1997) song những kết luận của các nghiên cứu này cũng chưa thực sự là rõ ràng.
Trong đánh giá việc đào tạo và phát triển các nhà lãnh đạo ở khu vực công ở Úc,
Morley & Vilkinas (1997) cho rằng tất cả các mô hình ở Úc đều là mô hình
năng lực tuy chúng có những sự khác biệt. Tuy nhiên, Morley & Vilkinas cũng
đã tổng kết được 16 đặc tính xác định chất lượng cho những nhà lãnh đạo trong
khu vực công được sử ở Úc:
1. Tầm nhìn và sứ mạng;
2. Thực hiện;
3. Chiến lược;
4. Quản lý con người;
5. Quan hệ công chúng, cộng đồng;
6. Sự phức tạp;
7. Quan hệ với các quá trình chính trị;
8. Tính trách nhiệm;
9. Thành tựu;
10.Năng lực trí tuệ, tư duy;
11.Các đặc tính cá nhân, đặc biệt là tự quản;
12.Chính sách;
13.Các kỹ năng quan hệ qua lại giữa các cá nhân;
14.Thay đổi;
15.Truyền đạt;
16.Quản lý nguồn lực.
Ở Việt Nam hiện nay, mô hình năng lực cũng
đã bắt đầu nhận được sự quan tâm và được sử dụng trong những nỗ lực phát triển
nguồn nhân lực trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước. Mô hình này đã và
đang được sử dụng rất thành công ở các tổ chức mà tác giả được biết như Dự án
phát triển năng lực Mekong (MPDF) của Công ty tài chính quốc tế (IFC); Dự án hỗ
trợ lâm nghiệp xã hội (SFSP); Swisscontact, và ở một số tổ chức tư vấn và đào
tạo phát triển nguồn nhân lực.
Những điểm cần lưu ý trong việc sử dụng mô hình
năng lực
1. Mô hình năng lực chú trọng vào việc hoàn thành
nhiệm vụ của tổ chức – nó chú trọng vào “con người phương tiện” chứ không phải
“con người mục đích”. Trong một chừng mực nhất định nó dựa trên quan điểm hành
vi trong giáo dục. Vì thế, những nhược điểm của quan điểm hành vi trong giáo
dục cần được quan tâm, chú ý khi áp dụng mô hình năng lực và phải được bổ sung
bởi những tiếp cận khác để đạt tới các mục tiêu giáo dục, đào tạo và phát triển
cụ thể.
2. Mô hình năng lực được sử dụng như những công cụ
cho việc tuyển lựa cán bộ, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ, và những chỉ dẫn
cụ thể cho những hoạt động giáo dục đào tạo và phát triển. Vì thế, cần nhận
thức nó là những công cụ chứ không phải là mục tiêu. Việc nhầm lẫn giữa phương
tiện và mục tiêu luôn là một hiện tượng thường xảy ra trong cuộc sống và dẫn
tới những hậu quả tai hại.
3. Điều có tính tiên quyết để việc áp dụng mô hình
năng lực có hiệu quả là phải có một danh mục các năng lực được thiết kế một cách
cẩn thận, có cơ sở khoa học, và phù hợp với bối cảnh thực tế của đất nước và
của các tổ chức. Những mô hình tốt ở các nước phát triển cũng đã được nghiên
cứu và kiểm định ở các nước khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, và cho
thấy là hầu hết các năng lực là phù hợp. Tuy nhiên, như đã đề cập ở phần trên –
năng lực là sự kết hợp giữa tiềm năng của cá nhân với đòi hỏi của nhiệm vụ -
khía cạnh văn hóa và những đặc điểm cụ thể của bối cảnh có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới danh mục, tầm quan trọng, và mức độ của các năng lực cần thiết. Vì thế,
những nghiên cứu nghiêm túc và cụ thể phải được thực hiện và được cập nhật
thường xuyên trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa và thay đổi nhanh hiện
nay
TS. Nguyễn
Hữu Lam
Trung tâm
Nghiên cứu & Phát triển Quản trị (CEMD) - Đại học Kinh tế TPHCM
[i] (*) Competency-based model: Thuật ngữ
competency rất khó dịch sang tiếng Việt. Tôi tạm dịch thuật ngữ này giống như
một số chương trình, tổ chức đã thực hiện mô hình này ở Việt nam dùng là năng
lực. Vì thế, competency-based model được dịch đầy đủ là Mô hình dựa trên năng
lực và được gọi tắt là Mô hình năng lực[i]
0 nhận xét:
Đăng nhận xét